Tram in là thông số quan trọng hàng đầu trong chế bản. Để đảm bảo chất lượng in luôn ổn định & thỏa mãn tối ưu mọi yêu cầu đặt ra thì việc lựa chọn tram in phải được tiêu chuẩn hóa cho từng phương pháp in, công nghệ in và công nghệ chế bản, điều kiện in, vật liệu in, tính định kỳ của sản phẩm in (in 1 lần hay còn phải in lại định kỳ… Phần 2
Tiêu chuẩn hóa việc sử dụng tram in là lựa chọn loại tram in & các thông số của tram in theo một tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế được thừa nhận rộng rãi (vd ISO 12647) hoặc lựa chọn loại tram in và các thông số tram in phù hợp với đặc thù công nghệ và đặc thù sản phẩm in tại xí nghiệp.
Phần 1: Tiêu chuẩn hóa tram in AM.
Hiện nay, trong lĩnh vực chế bản có 3 loại tram in kỹ thuật số: tram điều biên (AM), tram điều tần (FM) và tram lai AM & FM (Hybrid). Cùng một loại tram (AM, FM, Hybrid) lại có nhiều công nghệ tram hóa (screening technologies) khác nhau được áp dụng cho thiết bị tram hóa hình ảnh (RIP).
Các tram in FM, Hybrid với mục tiêu chính là xóa bỏ hiện tượng moiré và rossette, chỉ áp dụng thành công khi các nhà in có công nghệ CTP đồng thời đòi hỏi các điều kiện sản xuất rất khắt khe. Tram in AM truyền thống vẫn là lựa chọn chủ yếu và thông dụng cho cả chu trình chế bản ghi phim (CTF) và ghi bản tách màu (CTP) hiện nay.
Hình dạng điểm tram (dot shape):
Dạng tram round-square thích hợp cho in báo nếu yêu cầu kiểm soát gia tăng tầng thứ ở vùng tối của hình ảnh được ưu tiên (nếu sử dụng dạng tram tròn thì vùng sáng hình ảnh sẽ mịn màng hơn tram vuông nhưng vùng tối dot gain cao hơn dạng tram vuông). Tram dạng vuông ở vùng sáng và vùng trung gian cho độ tương phản tốt nhưng chuyển tông ở vùng trung gian không trơn tru, có thể tạo nên hiệu ứng nhảy tông, gãy tông.
Dạng tram Elliptical: Ở vùng sáng các hạt tram (phần tử in) có dạng tròn sau đó chuyển dần sang dạng hình e-lip. Các hạt tram chạm đầu nhau lần 1 tại 40% ± 5% (thông thường là tại điểm tram 44%) và chạm đầu nhau lần hai tại 60% ± 5% (thông thường tại điểm tram 61%) và trong khoảng tông này các hạt tram có dạng hình thoi (rhombic shape). Sau đó dạng tram lại chuyển thành e-lip và cuối cùng sang vùng tối các điểm trắng (phần tử không in) là hình tròn.
Ưu điểm lớn nhất của dạng tram in Elliptical là hình ảnh in ra mịn màng, giảm hiệu ứng nhảy tông, gãy tông nên tram chuyển trơn tru. Ở vùng sáng và vùng trung gian hình ảnh in mịn màng hơn dạng tram tròn, đồng thời ở vùng tối sự gia tăng tầng thứ đối với hạt tram dạng Elliptical cũng thấp hơn dạng tram tròn. Nhược điểm: nếu áp lực in quá lớn (dot gain cao) có thể tạo nên hiệu ứng thành các tram đường.
Góc tram các bản tách màu:
Góc tram các bản tách màu không chỉ là thông số liên quan đến hiệu ứng moiré khi in chồng màu mà thông thường còn là cơ sở để nhận dạng các bản tách màu trong sản xuất. Trước khi lựa chọn góc tram cho các bản tách màu, có 2 vấn đề cần làm rõ khi xây dựng tiêu chuẩn. Thứ nhất là định vị góc tram. Thứ hai, xác định màu in chủ đạo.
Định vị góc tram:
|
Hình 10: Góc tram theo Harlequin |
Khi xây dựng tiêu chuẩn kĩ thuật nội bộ, ta cần phải có quy ước cụ thể trong việc định vị góc tram. Giả sử chọn cách đọc góc tram theo quy định của tiêu chuẩn ISO 12647 (cách đọc góc tram truyền thống) thì việc thiết lập góc tram các bản tách màu trên các hệ thống chế bản cũng phải tuân thủ theo quy định này, tức là phải hoán đổi góc tram các bản tách màu cho phù hợp. Ví dụ: màu Cyan theo hệ tọa độ Heidelberg có góc tram 15° thì trong hệ tọa độ ISO 12647 sẽ có góc tram 75°, để có góc tram màu Cyan là 15° theo yêu cầu tiêu chuẩn đã xây dựng thì khi ghi bản trên hệ thống chế bản Heidelberg ta phải gán góc tram cho màu Cyan là 75°.
Xác định màu chủ đạo:
Màu chủ đạo được định nghĩa là màu có trị số tông lớn nhất so với các màu khác để tạo nên màu tổng hợp của hình ảnh. Tùy thuộc phương thức tạo ra màu đen (Black) như thế nào khi tách màu hay khi chuyển đổi không gian màu sang CMYK để xác định màu chủ đạo.
Với phương thức tách màu cổ điển, màu đen chủ yếu có ở vùng tối của hình ảnh (bắt đầu tạo ra màu đen từ vùng tông trung gian và tăng từ từ lên ở vùng tối). Ngoài ra, trong thực tế chúng ta thường chú ý đến các hình ảnh chân dung và không muốn xảy ra moiré ở trên những hình ảnh này, đặc biệt là ở các vùng tông màu da người (skin tone), vì vậy màu đỏ Magenta là màu chủ đạo (Heidelberg cũng luôn coi màu đỏ Magenta là màu chủ đạo có lẽ dựa trên quan điểm này chăng).
Gán trị số góc tram cho các bản tách màu:
-
Với dạng tram không có hướng chính (hạt dạng tram round, square, round-square…), góc tram các bản tách màu C, M, K phải lệch nhau tối thiểu 30°, góc tram của bản tách màu Y lệch so với màu khác 15°. Trị số góc tram màu chủ đạo là 45°.
-
Với dạng tram có hướng chính (hạt tram dạng elliptical), góc tram các bản tách màu C, M, K phải lệch nhau tối thiểu 60 độ, góc tram của bản tách màu Y lệch so với màu khác 15 độ. Trị số góc tram màu chủ đạo là 45 độ hoặc 135 độ.
Hình 11: Góc tram Round Square (ISO 12647) |
Hình 12: Góc tram Elliptical (ISO 12647) |
|
Hình 14: Hệ thống tram AM IS CMYK + 7,5° của Heidelberg |
Số dòng quét tram (lpi)
-
In trên máy in cuộn (web coldset): 40 ± 2 lines/cm (100 ± 0,8 lpi);
-
In trên máy in tờ rời: từ 45 – 80 lines/cm, tùy theo loại giấy in (giấy couché, couché-matt, giấy in báo…), tình trạng máy in, sản phẩm in là in lại định kỳ hay in 1 lần…
-
In trên giấy couché chọn tram xuất từ 60 – 70 lines/cm (150 lpi – 175 lpi).
-
In trên giấy couché-matt tram xuất là 52 lines/cm (133lpi).
-
In trên giấy báo tram xuất là 45 lines/cm (110 lpi – 120 lpi).
-
Sản phẩm chỉ in 1 lần yêu cầu chất lượng rất cao & điều kiện sản xuất đáp ứng có thể chọn tram xuất 80 lines/cm (200 lpi)…
Các giải pháp khác là tách màu Black hoặc Yellow với số dòng quét tram cao hơn so với các màu còn lại. Hệ thống tram IS Y fine (tần số quét tram màu Y cao hơn các màu C, M, K khoảng 1,5 lần) và tram RT Y45 K fine (tần số quét tram màu K cao hơn các màu C, M, Y khoảng 1,4 lần) là các giải pháp như vậy:
|
|
Theo quan niệm truyền thống, độ phân giải ghi hình ảnh liên quan đến mức độ chuyển tầng thứ của hình ảnh. Số bước chuyển tầng thứ (gray levels) được xác định theo công thức sau: # gray levels = (output resolution/screen frequency)2
Vậy chúng ta có quan tâm đến độ phân giải ghi hình ảnh (RIP) nữa không. Câu trả lời là có. Chúng ta lựa chọn độ phân giải ghi hình ảnh theo độ phân giải của thiết bị ghi. Nếu độ phân giải ghi hình ảnh khác với độ phân giải thiết bị ghi sẽ làm kích thước ghi phim hay ghi bản tách màu bị sai lệch (có thể bị phóng to hay thu nhỏ so với kích thước hình ảnh trên file). Trong trường hợp thiết bị ghi hỗ trợ nhiều độ phân giải khác nhau và chúng ta quan tâm đến cả kích thước hạt tram nhỏ nhất có thể ghi & in được trên giấy, tốc độ ghi bản, có thể chọn như sau:
Ví dụ tiêu chuẩn hóa tram AM trong lĩnh vực in offset:
Lĩnh vực in:
Loại tram: AM – IS CMYK + 7,5°.